Quy luật của sự tự phá hoại - Thay đổi hoàn cảnh bằng cách thay đổi thái độ
Mỗi người chúng ta đều có cách thức riêng trong việc nhìn vào thế giới, diễn giải sự kiện và hành động của mọi người xung quanh. Đó là thái độ của chúng ta.
Chúng ta nhìn thế giới qua một thấu kính riêng, vốn đã tô màu và định hình những nhận thức của chúng ta. Thấu kính này kết hợp với tâm trạng để hình thành nên thái độ của chúng ta.
Nếu chúng ta có xu hướng cảm giác nào đó, chúng ta sẽ có nhiều khả năng nhận ra những dấu hiệu đẩy cảm xúc này mạnh hơn.
Nếu chúng ta có bản chất nghi ngờ, chúng ta nhạy cảm hơn với những biểu cảm trên gương mặt vốn thể hiện bất cứ loại tiêu cực nào khả dĩ và phóng đại những gì chúng ta nhận thức.
Chúng ta không bao giờ ý thức được sự ảnh hưởng của thái độ của chúng ta với cách chúng ta suy nghĩ, nhận thức và hành động.
Thái độ của chúng ta khá dễ để uốn nắn, làm thái độ của chúng ta trở nên tích cực hơn, cởi mở hơn, khoan dung hơn, có thể học hỏi từ nghịch cảnh, tạo ra cơ hội từ chỗ không có gì và thu hút mọi người đến với chúng ta.
Chúng ta đã trải qua quá nhiều đau đớn, thất vọng, thất bại. Đôi lúc, chúng ta đều có những giây phút hoài nghi về bản thân. Chúng khiến ta cắt bớt những trải nghiệm như một cách để kiểm soát những lo lắng và thất vọng, chúng khiến chúng ta tìm tới bia rượu để làm tê liệt cơn đau, khi không nhận ra điều đó, chúng ta khoác lấy một thái độ tiêu cực và sợ hãi đối với cuộc sống.
Chúng ta hãy giữ một thái độ khoan dung đối với người khác và bản thân, hãy chấp nhận mọi người, thấu hiểu, yêu họ vì bản chất của họ, chúng ta có thể giải phóng tâm hồn khỏi những cảm xúc ám ảnh và nhỏ mọn. Chúng ta tạo một khoảng cách nào đó và ngăn chặn bản thân khỏi việc cá nhân hóa mọi thứ.
Loài người tin rằng chúng ta nhìn nhận khách quan về thế giới, rằng những người khác sẽ nhận thức giống mình, nhưng đây là một ảo tưởng. Những gì chúng ta nhận thức được không hoàn toàn giống người khác. Chúng ta định hình phần lớn thực tại theo tâm trạng và cảm xúc của chúng ta
Nguồn gốc thái độ của một người
Chúng ta đến với thế giới này với những khuynh hướng di truyền nhất định đối với sự thù địch, tham lam, cảm thông hoặc lòng tốt, chúng tồn tại sẵn trong chúng ta, chỉ có điều ít hay nhiều ở những người khác nhau. Chúng ta luôn có xu hướng nhìn thấy những gì còn thiếu, những gì chúng ta không nhận được từ người khác.
Tiếp theo, thời thơ ấu, những kinh nghiệm và các chiến lược được hình thành gắn với chúng đóng vai trò lớn trong việc hình thành thái độ. Chúng ta có xu hướng đồng hoá giọng nói của cha mẹ lên chúng ta (nếu họ độc đoán, hay phán xét thì chúng ta sẽ có xu hướng khắc nghiệt với bản thân mình nhiều hơn những người khác và có khuynh hướng phê phán nhiều hơn đối với thứ chúng ta thấy.
Khi chúng ta lớn tuổi hơn, những trải nghiệm sẽ làm thay đổi chúng ta. Khi yêu hoặc ngưỡng mô ai đó, họ sẽ một phần định hình cách chúng ta nhìn thế giới. Những trải nghiệm tiêu cực và gây tổn thương có thể khiến chúng ta đóng chặt tâm trí trước những điều có thể khiến chúng ta trải nghiệm nỗi đau ban đầu. Thái độ của chúng ta liên tục được định hình bởi những gì xoay quanh chúng ta.
Cách chúng ta suy nghĩ về mọi người có xu hướng tác động tới họ. Nếiu chúng ta cảm thấy thù địch và phê phán, chúng ta sẽ có xu hướng gợi những cảm xúc phê phán ở người khác, nếu chúng ta phòng thủ, chúng ta sẽ khiến họ cảm thấy cần phòng thủ.
Có 2 loại thái độ: tiêu cực và thu hẹp - tích cực và mở rộng. Người có thái độ tiêu cực sẽ hành động bắt nguồn từ vị trí e sợ cuộc sống. Họ muốn giới hạn những trải nghiệm, ý tưởng và cảm xúc mới. Chúng ta liên tục di chuyển giữa 2 thái cực này
Bạn phải ý thức được thái độ của chính mình và cách nó bóp méo nhận thức của bạn. Chúng ta khó quan sát được nó vì nó quá gần gũi với chúng ta
Bạn có thể nhìn thấy nó trong cách bạn đánh giá mọi người khi họ không hiện diện trước mặt bạn. Bạn có nhanh chóng tập trung vào những phẩm chất tiêu cực và những ý kiến tồi tệ của họ không, hay bạn khoan dung và tha thứ hơn khi nói đến sai sót của họ? Bạn sẽ nhìn thấy những dấu hiệu rõ ràng của thái độ của bạn trong cách bạn đổi mặt với nghịch cảnh hay sự phản kháng. Bạn có nhanh chóng quên. đi hoặc che đậy bất kỳ sai lầm nào của chính mình hay không? Bạn có đổ lỗi cho người khác theo bản năng về bất kỳ điều xấu nào xảy ra với bạn hay không? Bạn có sợ bất kỳ loại thay đổi nào hay không? Bạn có xu hướng duy trì những thói quen và tránh né bất cứ điều gì bất ngờ hoặc bất thường hay không? Bạn có sửng cổ lên khi người nào đó thách thức những ý tưởng và giả định của bạn hay không?
Bạn cũng có thể thấy điều đó ở mọi người, họ có phòng thủ, lo lắng trước sự hiện diện của bạn không, hay bạn có đang thu hút những người đóng vai trò cha hoặc mẹ bạn trong cuộc sống hay không?
Sức khoẻ của bạn phụ thuộc vào thái độ của bạn. Tâm trí và cơ thể là một, những suy nghĩ tác động đến các phản ứng thể lý của bạn. Mọi người có thể khỏi bệnh nhanh hơn thông qua mong muốn và ý chí. Bạn có thể phát triển trí thông minh của mình qua thái độ, Hãy nghĩ bộ não là một cơ quan kỳ diệu cho việc học hỏi và cải thiện liên tục đến tận già. Các kết nối thần kinh phong phú trong não là năng lượng cho sự sáng tạo. Hãy xem những trục trặc và thất bại như phương tiện để học hỏi và củng cố bản thân. Bạn có thể vượt qua bất cứ điều gì bằng sự kiên trì. Cách mọi người đối xử với bạn xuất phát từ thái độ của bạn, và bạn có thể kiểm soát được điều này.
Đừng ngại phóng đại vai trò của sức mạnh ý chí, đó là sự cường điệu có mục đích, là động năng tự hoàn thành tích cực.
Hãy coi việc định hình thái độ sống là một việc quan trọng nhất của bạn
Thái độ thu hẹp (tiêu cực)
Cuộc sống vốn dĩ hỗn loạn và khó lường, con ngời thì không thích sự không chắc chắn. Những người yếu đuối và dễ bị tổn thương có xu hướng chấp nhận thái độ với cuộc sống vốn thu hẹp những trải nghiệm để giảm thiểu khả năng của các sự kiện bất ngờ, chúng ta phát triển những chiến lược tâm lý kahsc nhau để hạn chế phải nhìn thấy và trải nghiệm, xây dựng hệ thống phòng thủ phức tạp để ngăn chặn những quan điểm khác, ngày càng trở nên quan tâm tới bản thân. Hầu như họ mong đợi điều tồi tệ sẽ xảy ra, mục tiêu của họ xoay quanh việc dự đoán và vô hiệu hoá những trải nghiệm xáau để kiểm soát chúng tốt hơn. Càng già, chúng càng lớn mạnh.
Thái độ này làm ta tự huỷ hoại vì nó tác động tới thái độ của người khác dành cho ta nhưng ta không nhận thức được việc đó, chúng ta nghĩ mọi người bức hại họ. Và khi chúng ta đẩy mọi người ra xa, chúng ta sẽ càng bị cô lập và khó thành công.
Những cảm xúc tiêu cực , sẽ làm nổi bật hơn thái độ đó (một người đang tức giận sẽ có xu hướng hoài nghi hơn, cảm thấy những bất an sâu sắc, sự oán ghét…)
Chúng ta cần nhận thức được 5 hình thức phổ biến nhất của thái độ thu hẹp đang tồn tại dưới dạng tiềm ẩn hoặc thể hiện ra ngoài của chính chúng ta và những người xung quanh.
1. Thái độ thù địch
Họ nhìn ra thế giới một cách đầy thù địch (có thể họ trải qua tuổi thơ với cha mẹ thích trừng phạt, gây tổn thương…) và chiến lược của chúng để kiểm soát nỗi sợ này là trở thành nguồn của sự thù địch, khi đó sự thù địch không còn là ngẫu nhiên và đột ngột. Khi lớn hơn họ có khả năng kích thích sự thất vọng và tức giận ở những người khác để biện minh cho thái độ ban đầu của họ.
Họ có nhiều cách tinh vi để kích động sự thù địch: rút lui khỏi một dự án vào một thời điểm sai lầm, liên tục trễ nải, làm việc uể oải, cố tình tạo ấn tượng đầu tiên thiếu thiện chí nhưng họ không thấy mình đóng vai trò trong việc kích động phản ứng. Cuộc sống của họ đầy rẫy nghững sự phản bội, sự ngược đãi nhưng dường như không bắt nguồn từ họ.
Sự thù địch ngấm vào mọi điều họ làm: cách tranh luận và khiêu khích (họ luôn luôn đúng), những câu nói đùa mang hàm ý xấu xa,, sự tham lam trong việc đòi hỏi sự chú ý, thú vui có được từ vị chỉ trích kẻ khác hay khi nhìn thấy họ thất bại. Và họ trở nên nhanh chóng tức giận trong những tình huống này.
Cách đối phó là cố hết sức để không phản ứng với sự chống đối, sự kích thích mà họ mmong đợi. Duy trì trạng thái trung lập, điều này khiến họ bối rối và tạm thời dừng trò mà họ đang chơi.
2. Thái độ lo lắng
Họ dự đoán bất cứ các trở ngại khó khăn trong bất kỳ tình huống nào đến với họ. Họ mong đợi một sự chỉ trích hoặc thậm chí là phản bội. Điều họ e sợ là đánh mất khả năng kiểm soát hoàn cảnh. Giải pháp của họ là hạn chế những gì có thể xảy ra, thu hẹp thế giới mà họ đối phó, giới hạn những nơi họ tới, những gì họ sẽ cố gắng.
Trong mối quan hệ, họ sẽ kiểm soát một cách tinh vi những nghi thức và thói quen trong nhà, họ đòi hỏi sự chú ý đặc biệt. Tất cả phải được thực hiện theo ý họ. NHưng khi ở bên ngoài khu vực an toàn (ngôi nhà hoặc mối quan hệ mà họ chiếm ưu thế) họ trở nên cáu kỉnh khác thường.
Trong công việc, họ là người cầu toàn, quản lý vi mô triệt để.
Một hình thức để che đạy khác là luôn tìm cách làm hài lòng và lừa phỉnh mọi người để tước vũ khí của mọi hành động không thể đoán trước được và không thân thiện.
Cách đối phó: cố gắng không cảm thấy bị lây nhiễm sự lo lắng của họ, hãy cố gắng hành động để an ủi họ (thứ họ thiếu trong những năm đầu đời). Hãy bình tĩnh, cung cách hành xử của bạn sẽ có tác dụng hơn lời nói.
Cách cải thiện ở bản thân: cố gắng trút năng lượgn đó vào công việc, kiểm soát xu hướng cầu toàn và kiểm soát của mình, hướng chúng vào thứ có ích, cố gắng cởi mở hơn với tốc độ làm việc của họ, cố đặt bản thân vào những tình huống mà bạn sợ hãi nhất, có thể bạn sẽ phát hiện ra nỗi e sợ của bạn bị thổi phồng lên quá mức. Hãy đưa một chút hỗn loạn vào cuộc sống quá trật tự của mình
Thái độ né tránh
Họ nhìn thế giới thông qua ống kính của sự bất an, liên quan tới những hoài nghi về năng lực và trí thông minh của bản thân.
Thời thơ ấu họ cảm thấy không thoải mái hoặc có lỗi với bất kỳ nỗ lực nào để vượt trội và nổi bật so với anh chị em, họ cảm thấy tồi tệ về những sai lầm hoặc hành vi sai trái nào của họ, họ sợ hãi sự phán xét của cha mẹ
Khi trưởng thành, mục tiêu chính của họ alf né tránh mọi trách nhiệm hoặc thách thức mà trong đó lòng tự trọng của họ bị đe doạ và họ có thể bị phán xét. Họ khong quá cố gắng trong cuộc sống, họ không thể thất bại hoặc bị chỉ trích.
Họ luôn tìm kiếm những lối thoát một cách ý thức, vô thức (thay dổi công việc, cắt đứt mối quan hệ…) Họ khó tậm tâm với bất cứ điều gì, vì khi họ tiếp tục gắn bó với nó, sai sót của họ có thể trở nên úa rõ ràng với những người khác (tốt hơn hết hãy chuồn khỏi đó và duy trì ảo tưởng về sự tốt đẹp và vĩ đại của họ)
Dù họ e sợ thật bại và những phán xét, nhưng họ cũng ngấm ngầm e sợ thành công, bởi thành công đi kèm với trách nhiệm và nhu cầu hoàn thành chúng, nó cũng kích hoạt nỗi sợ về sự nổi bật và xuất sắc (nỗi sợ thời thơ ấu)
Biểu hiện: thường xuyên thay đổi công việc, mối quan hệ cá nhân, họ có thể nguỵ trang dưới vẻ thánh thiện: tôi coi thường thành công và những người tự chứng tỏ bản thân. Việc thực hiện lý tưởng sẽ có thể làm họ thất bại hoặc bị chỉ trích vì vậy họ chọn lý tưởng quá cao và không thực tế. Đừng nghe họ nói, hãy nhìn vào những hành động của họ, sự thiếu thành tựu, dự án không bao giờ khởi sự, không bao giờ hoàn thành và những lời bào chữa có lợi cho mình
Cách khắc phục ở bản thân: thực hiện một kế hoạch với quy mô nhỏ nhất, thực hiện tới cùng và đón nhận viễn cảnh thất bại. Khi đó, lòng tự tọng sẽ tăng lên vì bạn cuối cùng cũng hoàn thành thứ gì đó, sau đó bạn có thể tiến lên hoàn thành những thứ tốt hơn.
Cách đối phó với người khác: hãy cảnh giác khi là đối tác của họ, họ sẽ chuồn đi không đúng lúc, bỏ mặc bạn với công việc. Hãy tránh sự cám dỗ và muốn giúp đỡ hoặc giải cứu họ khỏi tình trạng tiêu cực của họ vì họ quá giỏi trong trò chơi né tránh.
Thái độ trầm cảm
Khi còn nhỏ, họ sẽ không được cha mẹ yêu thương hay tôn trọng, cách tự vệ của chúng là đồng hoá mình với những đánh giá tiêu cực của cha mẹ, nghĩ rằng chúng không xứng đáng được yêu thương, ở chúng có điều gì không ổn (bằng cách này, chúng duy trì ảo tưởng rằng cha mẹ chúng mạnh mẽ và giỏi giang, những đứa con sẽ luôn nghĩ cha mẹ chúng như vậy). Cảm giác vô giá trị sẽ ảm ảnh suốt cuộc đời họ.
Khi trưởng thành, họ sẽ lường trước sự từ bỏ, mất mát và u buồn trong những trải nghiệm của mình và nhìn thấy dấu hiệu của những điều có khả năng gây thất vọng ở xung quanh. Họ bị lôi kéo vào những thứ u ám, họ được an ủi bởi ý nghĩ rằng thế giới là một nơi ảm đạm, điều này sẽ nuôi dưỡng cơn trầm cảm của họ và họ chấp nhận cơn trầm cảm vì ít nhất nó cũng nằm dưới sự kiểm soát của họ.
Những dạng người này thường có nhu cầu bí mật đối với việc làm tổn thương người khác, khuyến khíach những hành vi như phản bội hoặc chỉ trích (vào bản thân họ) vốn sẽ nuôi dưỡng sự trầm cảm của họ. Họ cũng sẽ phá hoại chính mình nếu họ thành công, vì họ cảm thấy mình không xứng đáng với điều đó.
Thường dạng người trầm cảm sẽ thu hút mọi người đến với họ do bản chất nhạy cảm và họ sẽ kích thích mong muốn giúp đỡ họ của người khác. NHưng sau đó họ sẽ làm tổn thương người giúp đỡ và rút lui, nó sẽ khiến người khác bối rối nhưng khó mà thoát khỏi họ mà không cảm thấy tội lỗi. Họ có khả năng làm cho người khác buồn phiền vì sự hiện diện của họ, điều này cung cấp năng lượng cho sự trầm cảm bên trong họ.
Giải pháp đối với bản thân: hãy ý thức được chúng và biết giá trị của chúng là tạm thời làm chúng ta chậm lại, giảm năng lượng và rút lui. Chúng sẽ hết sau một thời gian, hãy tìm cách nâng cao mức năng lượng của bạn hoặc hướng nó vào công việc, đặc biệt là nghệ thuật. Làm quen với việc rút lui và ở một mình, sử fujng thời gian đó để khai thác phần vô thức của bạn.
Giải pháp với người khác: đừng bao giờ igups người trầm cảm bằng cách giải thích về điều kỳ diệu của cuộc sống, mà hãy nhất trí với quan điểm u ám của họ về thế giới trong khi đó khéo léo kết hợp với những trải nghiệm tích cực để nâng cao tâm trạng và năng lượng của họ mà không cần đưa ra bất cứ một yêu cầu trực tiếp nào.